Tác giả: Thạc sĩ Donald Felty
Khí công là một trong nhưng phương pháp cổ xưa được ứng dụng trong chữa bệnh, bao gồm thiền định, kiểm soát hơi thở, tư thế và chuyển động. Từ Khí công là sự kết hợp của hai chữ tượng hình trong tiếng Trung: “Qi”, có nghĩa là “năng lượng sống” và “gong”, có nghĩa là “kỹ năng hoặc thành tích”.
Khí là nền tảng của y học cổ truyền Trung Quốc, là năng lượng ở tất cả các khía cạnh như: năng lượng quan trọng, bên trong, phổ quát,…. Bộ não hoạt động như trung tâm chỉ huy của hệ thần kinh trung ương, kiểm saots 20% tổng năng lượng của cơ thể. Hai phần ba số đó cung cấp năng lượng cho khoảng 60 – 70 nghìn tỷ tế bào thần kinh tích điện (tế bào thần kinh) để truyền tín hiệu. Các nhà thần kinh học hiện nay mô tả bộ não là sinh hóa, điện sinh học và dẻo dai. Vũ trụ thần kinh của các chất tiết sinh hóa và phóng điện sinh học bao gồm hệ thống xử lý thông tin phức tạp, phát ra một trường điện từ, được ghi lại bằng công cụ khoa học, bao gồm ECG, EEG và MRI.
Lần đầu tiên, các nhà khoa học (Đại học Northwestern) đã chụp được hình ảnh tia sáng phát ra vào đúng thời điểm tế bào tinh trùng của con người tiếp xúc với trứng. Khí là sự bùng nổ đó, sự bùng nổ vô hình của năng lượng sinh hóa, điện sinh học, bắt đầu từ lúc thụ thai.
Vật lý lượng tử hiện đại đưa chúng ta đến gần hơn với khái niệm Khí cổ xưa của phương Đông, cho chúng ta biết rằng không có sự khác biệt giữa năng lượng và vật chất. Tất cả các bộ phận của con người đều tiếp tục hoạt động với sự nhất quán trong việc tạo ra năng lượng. Chúng ta đã học được từ Einstein rằng ánh sáng và vật chất hoàn toàn là những biểu hiện của cùng một thứ, vật chất đơn giản là ánh sáng đứng yên và ánh sáng là vật chất chuyển động.
Ngày nay, các nghiên cứu chứng minh cho chúng ta thấy rằng ngay cả khi trưởng thành, nhiều đặc tính của não vẫn có thể bị thay đổi. “Khả biến thần kinh” (tính dẻo thần kinh, tính dẻo của não) là khả năng không ngừng tự sắp xếp lại của não bằng cách tạo ra các kết nối thần kinh mới. Bộ não “dẻo” ở một mức độ nào đó có thể bù đắp cho chấn thương và bệnh tật. Nó có thể thay đổi để phản ứng với những tình huống mới, những suy nghĩ mới và những hành động mang tính kỷ luật.
Khí công là môn tu luyện và cân bằng khí. Trong thực hành, chúng ta cải thiện bộ não sinh hóa, điện sinh học, thần kinh bằng những thói quen mang tính xây dựng như phát triển kỹ năng, thiền định chánh niệm và kiểm soát hơi thở. Là những học viên Khí công, chúng ta là những người mang ảnh hưởng tích cực đến thần kinh, mang tới sự thay đổi và phát triển bộ não để đảm bảo sức khỏe tinh thần cũng như thể chất. Mỗi học viên đều là một “chuyên gia” khí công.
Tính dẻo thần kinh của bộ não quyết định sự thay đổi cấu trúc thực tế và tự điều chỉnh để đáp ứng những nhu cầu mới. Từ tia sáng đầu tiên đó cho đến tuổi già, bộ não luôn chuyển mình, luôn thay đổi, không ngừng phát triển và thích nghi với hoàn cảnh. Tính dẻo thần kinh cho chúng ta biết rằng ngay cả Trí thông minh cũng không cố định trong não khi sinh ra mà nó liên tục phát triển trong suốt cuộc đời của con người. “Những ảnh hưởng tích cực đến thần kinh” hình thành các tế bào thần kinh mới và các kết nối mới. Khả năng của não trong việc tạo ra các tế bào thần kinh mới và kết nối giữa các tế bào thần kinh này được gọi là sự hình thành thần kinh. Mặt khác, “tác động tiêu cực đến thần kinh” gây tổn thương và phá hủy các tế bào thần kinh.
Nghiên cứu khoa học thần kinh xác nhận rằng tập thể dục làm tăng đáng kể sự hình thành thần kinh ở một vùng đồi hải mã, rất quan trọng đối với việc học tập và cải thiện trí nhớ. Các tế bào thần kinh mới được tạo ra ở vùng hải mã mỗi ngày và số lượng tế bào được tạo ra có thể tăng lên nhờ tập thể dục. Trong lĩnh vực khoa học thần kinh, việc kích thích tinh thần và tập thể dục được cho là có tác dụng “bảo vệ thần kinh”. Thông qua tính dẻo dai của thần kinh, các lực sống này làm tăng sự kết nối giữa các tế bào thần kinh, thúc đẩy quá trình trao đổi chất của tế bào và tạo ra sự phát triển thần kinh cũng như sửa chữa tế bào thần kinh.
Những trải nghiệm kích thích tinh thần, tập luyện và “học tập hiệu quả” của khí công có thể hình thành và phát triển bộ não của chúng ta theo thời gian. Cùng điểm qua 3 phương pháp (Ba sự điều chỉnh có chủ ý) của luyện tập Khí công: 1) Tư thế và chuyển động 2) Kiểm soát hơi thở và 3) Chánh niệm và Thiền định.
Tư thế và chuyển động

Chúng ta sử dụng cả tư thế động và tĩnh khi luyện tập Khí công. Mặc dù tư thế sai tạo ra các kiểu mất cân bằng cơ có thể đoán trước được (các kiểu biến dạng tư thế), nhưng nó thường không được chú ý trong các chương trình thể dục đốt cháy calo, cường độ cao hiện đại của phương Tây. Sai tư thế gây căng thẳng cho từng hệ thống của cơ thể con người, bao gồm hệ thần kinh trung ương, hệ tuần hoàn, hệ tiêu hóa, hệ cơ xương và hệ hô hấp, tạo ra ảnh hưởng tiêu cực đến thần kinh.
Vì vậy, tư thế và động tác đúng rất quan trọng trong Khí công. Chúng ta phát triển các kỹ năng vận động thông qua chuyển động lặp đi lặp lại. Các nhà thần kinh học lập luận rằng “các tế bào hoạt động cùng nhau sẽ kết nối với nhau”. Chuyển động lặp đi lặp lại sẽ kích hoạt hệ thống thần kinh phó giao cảm và phản ứng thư giãn. Hơn hai thập kỷ nghiên cứu học thuật chỉ ra rằng bộ não của chúng ta phản ứng với việc tập luyện bằng tính linh hoạt do học tập gây ra, việc tái tổ chức cấu trúc và thay đổi chức năng.
Tính dẻo thần kinh cho chúng ta biết rằng chúng ta có thể trở nên thành thạo hơn thông qua nỗ lực rèn luyện. Việc thực hành tư thế và chuyển động khí công tạo ra ảnh hưởng tích cực đến thần kinh. Các cụm tế bào thần kinh của não kích hoạt các con đường điện sinh học, sinh hóa phù hợp với hoạt động thực hành.
Vì khí công là cuộc hành trình cả đời nên chúng ta không ngừng học hỏi và phát triển những kỹ năng mới. Khi học, chúng ta hình thành những con đường mới trong não. Với sự luyện tập bền bỉ, hệ thống năng lượng sinh hóa của cơ thể chúng ta sẽ tăng cường hiệu quả. Nếu không có sự tiến hóa này, bộ não của chúng ta sớm hay muộn sẽ loại bỏ hoặc “cắt tỉa” các tế bào kết nối hình thành nên các con đường. Các vùng não hỗ trợ lĩnh vực chuyên môn phát triển theo thời gian, làm tăng lượng chất xám (tế bào thần kinh) và chất trắng (kết nối giữa các tế bào thần kinh) trong não.
Kiểm soát hơi thở

Kiểm soát hơi thở để làm chủ dòng khí của mình. Trong quá trình luyện tập khí công động, chúng ta thực hiện kiểm soát hơi thở có ý thức như một hình thức thiền định. Thông thường, chúng ta thực hiện phương pháp thở Yoga hoặc Phật giáo, còn được gọi là “thở bụng”, “thở cơ hoành”. Khoa học hiện đại thừa nhận cơ hoành là cơ hô hấp chính của cơ thể. Chúng ta thư giãn, giữ thẳng cột sống và đặt đầu lưỡi lên vòm miệng trên, ngay sau răng cửa hàm trên. Chúng ta thở sâu vào bụng, làm đầy đan điền và thở ra từ đan điền. Hít thở dài và sâu làm chậm nhịp tim, kích hoạt và làm dịu hệ thần kinh phó giao cảm.
Con người thở bằng mũi, phương pháp này không khí thoát ra chậm hơn khi thở bằng miệng, do đó bảo toàn Khí. Mặt khác, người thở bằng miệng thở nhanh và nông, kích hoạt hệ thần kinh giao cảm. Các nhà nghiên cứu đã quan sát thấy rằng khi bệnh nhân được hướng dẫn thở ra bằng miệng thì kết quả kết hợp sóng não sẽ giảm đáng kể. Tính dẻo thần kinh là một thành phần quan trọng của hệ thống kiểm soát hô hấp. Độ dẻo hô hấp có thể được tạo ra nhờ tác động tích cực đến thần kinh của việc tập thể dục. Nó cũng có thể được kích hoạt bởi những ảnh hưởng tiêu cực đến thần kinh, bao gồm căng thẳng và chấn thương.
Trong khi các tế bào điều hòa nhịp tim trong tim kiểm soát nhịp tim của con người thì mạch thần kinh trong thân não lại điều chỉnh nhịp thở của chúng ta. Hoạt động thần kinh nhịp nhàng ở vùng này có thể được thay đổi bằng nhịp thở. Hơi thở chậm, có kiểm soát làm giảm hoạt động của mạch và cải thiện chức năng nhận thức. Hơi thở nhanh, không đều tăng cường hoạt động. Cả hai đều ảnh hưởng đến cảm xúc.
Một nghiên cứu gần đây của Viện Nghiên cứu Y khoa Feinstein ở New York đã xác nhận cả tính dẻo dai thần kinh của não và lợi ích của việc kiểm soát hơi thở. Khi hơi thở thay đổi, não cũng thay đổi. “Hơi thở có thể hoạt động như một nguyên tắc phân cấp tổ chức cho các dao động thần kinh trong toàn bộ não.”
Chánh niệm và Thiền định

Chánh niệm và thiền định được kết hợp với chuyển động nhẹ nhàng và hơi thở sâu, chậm, có kiểm soát. Thiền chánh niệm có thể được coi là sự tập trung và nhận thức bao gồm việc thực hành thiền. Khi tập trung vào suy nghĩ, cảm xúc và chuyển động cũng ảnh hưởng tới cách tác động đến những người xung quanh. Tập trung vào bên trong để tạo ra sự bình tĩnh và cân bằng. Cả Khí công và Thái Cực Quyền hiện nay thường được gọi là “thiền trong chuyển động” hoặc “chuyển động thiền định”. Khi chúng ta tập thể dục với tư thế đúng và chuyển động duyên dáng, chúng ta sẽ ý thức được sự tương tác của chuyển động, hơi thở có kiểm soát và hướng vào bên trong.
Thiền chánh niệm làm thay đổi bộ não. Sau cuộc thử nghiệm kéo dài 8 tuần với một nhóm đối chứng thực hành thiền chánh niệm 20 phút mỗi ngày, các nhà khoa học của Bệnh viện Đa khoa Massachusetts đã quan sát thấy sự gia tăng thực tế về nồng độ chất xám và hạch hạnh nhân, Phản ứng “chiến hay chạy” (fight or flight center) của não, dường như co lại.
Nhiều nghiên cứu lâm sàng chỉ ra rằng việc thực hành thiền liên tục “gây ra hiện tượng dẻo thần kinh, bao gồm giảm sự thoái hóa não liên quan đến tuổi tác, cải thiện chức năng nhận thức, cải thiện khả năng chú ý, trí nhớ làm việc, khả năng kiểm soát không gian và trí nhớ dài hạn. Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ hiện khuyến nghị thiền “như một biện pháp bổ sung cho việc giảm nguy cơ tim mạch”.
Thiền chánh niệm là cần thiết để thực hành Khí công động một cách hiệu quả, vì chúng ta phải kết hợp tâm trí, tư thế, chuyển động và hơi thở. Các phương pháp cổ xưa không ngừng cải biên, không ngừng phát triển, các phương pháp luyện tập khí công và thái cực quyền là nền tảng của Y học cổ truyền Trung Quốc (TCM). Ba phương pháp điều chỉnh có chủ đích của việc luyện tập khí công: Tư thế và chuyển động, Kiểm soát hơi thở, Chánh niệm và thiền định, hiện là chủ đề của nghiên cứu khoa học thần kinh chứng minh rằng những phương pháp luyện tập lâu đời này có ảnh hưởng tích cực tới não bộ.